Câu 1: Khái niệm lịch sử
Lịch sử là những gì xẩy ra trong quá khứ của con người. Là một ngành khoa học thuộc nhóm các ngành khoa học nhân văn, có đối tượng nghiên cứu là quá khứ của con người và xã hội loài người kể từ khi con người xuất hiện cho đến nay, từ đó phát hiện ra quy luật phát sinh và phát triển của lịch sử xã hội loài người. (loài người xuất hiện cách đây khoảng 3.5 triệu năm)
Câu 2: Khái niệm văn hóa – văn minh
a. Văn hóa: Văn hóa là tổng thể những giá trị được thể hiện cả hai mặt vật chất và tinh thần do con người và xã hội loài người sáng tạo ra kể từ khi con người xuất hiện cho đến nay.
- Văn hóa là khái niệm vô cùng phức tạp.
- Văn hóa mang tính bền vững, khó thay đổi, nói gắn liền với dân tộc
- Văn hóa được hình thành đầu tiên ở xã hội Phương Đông nông nghiệp
- Văn hóa phát triển đến một trình độ nào đó thì trở thành văn minh
b. Văn minh: Văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, là một trạng thái tiến bộ được thể hiện ở hai mặt vật chất và tinh thần được con người và xã hội loài người sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội.
- Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế)
- Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương Tây đô thị.
- Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện ). Tuy nhiên, có những thành tựu văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn minh đều mang tinh chất tiến bộ ở đỉnh cao.
- Văn minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
Câu 3: Khái niệm Phương Đông – Phương Tây
Phương Đông và Phương Tây là những khái niệm thuộc về nhận thức của con người. Ban đầu, các khái niệm này đơn thuần dùng để chỉ phương hướng, nhưng về sau nó gắn liền với yếu tố lịch sử và có tính chính trị. Vì thế, ranh giới giữa Phương Đông và Phương Tây chỉ mang tính quy ước, tương đối.
Là quy ước do người Phương Tây đặt ra (Theo quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm thế giới) quan điểm này xuất phát từ Hy Lạp, một quốc gia nằm ở phía nam châu Âu, thuộc khu vực Địa Trung Hải, khối cư dân ở đây gọi khu vực phía Tây của họ là Phương Tây còn các vùng đất còn lại (bao gồm khu vực phía đông Địa Trung Hải và cả Đông Bắc Phi) là Phương Đông. Từ quan niệm này sau đó đã xuất hiện các khái niệm Cận Đông, Trung Đông, và Viễn Đông.Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, khái niệm Phương Đông và Phương Tây lại được hiểu một cách linh hoạt dựa trên các tiêu chí khác nhau như thời gian hình thành, nhân chủng, văn hóa, kinh tế, chính trị, địa lý.
Văn minh Phương Đông xuất hiện từ cuối thiên niên kỷ IV TCN đến cuối thiên niên kỷ III TCN
Văn minh Phương Tây xuất hiện khỏan đầu thiên niên kỷ I TCN.
Văn minh Phương Tây xuất hiện khỏan đầu thiên niên kỷ I TCN.
Câu 4: Cơ sở hình thành văn minh Phương Đông cổ đại
1. Điều kiện tự nhiên
v Các nền văn minh Phương Đông cổ đại bao gồm các nền văn minh thuộc khu vực Đông Bắc châu Phi và châu Á. Đặc điểm của các nền văn minh Phương Đông cổ đại là đều hình thành trên lưu vực của các con sông.
- Văn minh Ai Cập: hình thành trên lưu vực của sông Nile (hình thành vùng đồng bằng thượng Ai Cập và hạ Ai Cập). Nằm ở Đông Bắc châu Phi nối với châu Á bằng một eo đất nhỏ hẹp – eo Xinai.
- Văn minh Lưỡng Hà: Nằm giữa sông S.Tigris và Euphrates nằm ở khu vực Trung Đông gần vịnh Ba Tư, gồm phần lớn của lãnh thổ Irap và Iran ngày nay.
- Văn minh Ấn Độ: Hình thành trên lưu vực sông Ấn sau đó là sông Hằng
- Văn minh Trung Hoa: Hình thành ở khu vực đồng bằng Hoàng Hà, sau đó mở rộng xuống khu vực Trường Giang.
v Sông giữ vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân Phương Đông bởi vì:
- Nguồn phù sa đem lại sự màu mỡ cho đất đai, thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực.
- Là nguồn nước sinh hoạt cho con người và là nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng gần như là duy nhất.
- Đường giao thông chính, tương đối thuận lợi
- Cung cấp cho con người lượng thủy sản phong phú, dồi dào
- Các con sống ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục tập quán, văn học, ngôn ngữ… của khối dân cư sống quanh nó. Nên văn minh Phương Đông là nền văn minh sông nước.
v Các nền văn minh Phương Đông thời cổ đại đều hình thành trên các đồng bằng phù sa, đất đai màu mỡ, mềm, mịn, tơi xốp nên nghề nông phát triển nhanh chóng, sản xuất nông nghiệp đã tạo ra sản phẩm thừa và làm xuất hiện tư hữu, từ đó hình thành giai cấp và nhà nước xuất hiện sớm. Vì thế văn minh Phương Đông còn được gọi là văn minh nông nghiệp.
v Ở buổi đầu hầu hết các nền văn minh Phương Đông đều tồn tại một cách biệt lập, khép kín (ngọai trừ nền văn minh Lưỡng Hà) đặc điểm này là do vị trí địa lý và địa hình tự nhiên. Sự biệt lập khép kín đã dẫn đến những hệ quả khác nhau:
- Giữ được bản sắc riêng biệt
- Chế độ chính trị ổn định lâu dài
- Tính cố kết cộng đồng
Nhưng nó cũng để lại hậu quả
- Ít có sự tiếp xúc với bên ngoài
- Chế độ chuyên chế tồn tại lâu dài, dai dẳng, tín ngưỡng và tôn giáo phát triển mạnh ảnh hưởng chi phối nhiều mặt tới đời sống xã hội, kìm hãm sự phát triển, làm cho xã hội trì trệ, bảo thủ, lạc hậu.
- Tâm lý sống thụ động, khép kín, sợ tiếp xúc cái mới.
v Khoáng sản: Các mỏ khoáng sản (lộ thiên) rất ít. Do vậy công cụ lao động vũ khí còn thô sơ lạc hậu, chủ yếu được làm từ gỗ, đá, tiến bộ nhất là bằng đồng vì thế gọi văn minh Phương Đông là văn minh đồ đồng.
v Khí hậu nhiệt đới: (nhiệt đới sa mạc và nhiệt đới gió mùa) thảm thực vật phong phú thuận lợi cho việc trồng cây lương thực. Tuy nhiên, người dân Phương Đông hàng năm phải chống chọi với nhiều thiên tai. Cuộc đấu tranh với thiên nhiên trở thành vấn đề thường xuyên, liên tục và hao tốn nhiều sức người, sức của.
2. Cư dân
v Ai Cập: Cư dân bản địa là người Negroit, thổ dân châu Phi, đến khoảng 4.000 tr.CN một nhánh người Hamites ở Tây Á sang định cư ở đồng bằng sông Nile. Và hai cộng đồng người này tự nhận mình là con cháu của thần Osiris và được gọi là Egypt – người Ai Cập.
v Ấn Độ: Chủ nhân của nền văn minh sông Hằng là người Aryan sống du mục có nguồn gốc từ vùng thảo nguyên Trung Á thiên di xuống Ấn Độ. Khoảng giữa thiên niên kỷ II tr.CN có ý kiến cho rằng họ đã chinh phục người Dravida, tàn phá nền văn minh sông Ấn, sau đó xây dựng nền văn minh sông Hằng.
Ngòai ra Ấn Độ còn nhiều tộc người khác đến định cư và sinh sống như người Hi Lạp, Mông Cổ, Ả Rập.
v Trung Hoa
Khối dân cư đầu tiên cư trú vùng đồng bằng Hoa Bắc (lưu vực Hoàng Hà) là người Hoa Hạ, họ gọi các dân cư cư trú ở khu vực phía Bắc, Tây, Nam và Đông là người Địch, Nhung, Man, Di. Cúôi thiên niên kỷ II tr.CN họ chinh phục người Địch và Nhung ở phía Bắc và Tây.
Sau đó họ tiến xuống phía Nam chinh phục và đồng hóa khối dân cư Bách Việt ở khu vực Trường Giang, đến thời nhà Tần các khối dân cư này được gọi chung là người Hán – chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa.
3. Kinh tế
Kinh tế các quốc gia Phương Đông thời cổ đại là nền kinh tế tự nhiên mang tính tự cung tự cấp, chế độ tư hữu ruộng đất diễn ra yếu ớt, trình độ sản xuất xã hội hết sức thấp kém, các quá trình phân công lao động hầu như chưa diễn ra.
Lực lượng lao động sản xuất chính là tầng lớp tự do, những nông dân trong các công xã, những sản phẩm tạo ra phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của chính họ.
a. Nông nghiệp:
Là ngành kinh tế chủ đạo, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi trong đó trồng trọt là chính chăn nuôi phụ.
Trồng trọt: canh tác chủ yếu trên loại đất phù sa trên danh nghĩa là đất thuộc sở hữu một người (vua) nhưng trên thực tế diện tích đất thuộc các bộ máy công xã quản lý luôn phiên cho các thành viên. Người dân cuối mùa nộp lại cho nhà nước một phần làm ra (gọi là nộp tô., lúc đầu tô sản vật sau đó tiền, sau đó thuế)
Đất đại được chia nhỏ lẽ. quy mô canh tác nhỏ, xuất hiện mô hình các đại điền trang.
Do ảnh hưởng điều kiện tự nhiên hầu hết cư dân Phương Đông thời cổ đại chỉ canh tác một năm một mùa vụ chính vì thế lượng sản phẩm xã hội làm ra không nhiều, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của con người.
Các sản phẩm trồng trọt chính: Đầu tiên là các loại lúa, các loại rau, các lọai cây ăn quả, cây công nghiệp.
Do tư tưởng bình quân dẫn đến tư tưởng cào bằng nên quy mô canh tác nhỏ
Chăn nuôi: tiến hành theo mô hình cá thể có chuồng trại, quy mô nhỏ, được tiến hành theo từng hộ gia đình, mục đích sử dụng làm sức kéo, cải thiện bữa ăn hàng ngày.
Các vật nuôi chủ yếu: trâu, bò, dê, ngựa. Sản lượng chăn nuôi ít dẫn đến người Phương Đông ít ăn thit, các vật nuôi trở nên quý hiếm.
b. Thủ công nghiệp:
Mang tính cục bộ, riêng lẻ, không phải là ngành kinh tế chủ đạo. Phát triển trong phạm vi hẹp trong các công xã, thị trường tiêu thụ nhỏ, phục vụ cho nhu cầu công xã, sự trao đổi hàng hóa diễn ra ít, các sản phẩm công nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng và mang đậm dấu ấn của các địa phương. Tuy nhiên, các ngành nghề tương đối phong phú và chất lượng khá tinh xảo. Do quá trình sản xuất chủ yếu phục vụ cho nhu cầu trong công xã nên lượng hàng hóa làm ra chưa nhiều, vì vậy sản phẩm thủ công nghiệp cũng trở thành hàng hóa. Các ngành nghề cũng tương đối đa dạng như chế tác vũ khí, công cụ lao động, sản xuất đồ gốm, gạch ngói, đồ trang sức, thủy tinh….
c. Thương nghiệp:
Nền kinh tế mang tính tự cung, tự cấp, sức sản xuất kém và mạng lượng giao thông chưa phát triển nên thương nghiệp chưa thực sự hình thành, mang tính cục bộ, ít giao lưu, trao đổi với bên ngoài. Phương thức chủ yếu là trao đổi hàng hóa.
Có thể nói kinh tế quốc gia Phương Đông thời cổ đại chưa phải là nền kinh tế hàng hóa, lực lượng sản xuất chủ yếu là nông dân tự do (trong đó nông dân công xã giữ vai trò chủ đạo) quá trình phân công lao động và chuyên môn hóa hầu như chưa diễn ra vì vậy chế độ chiếm hữu nô lệ ở Phương Đông phát triển một cách không thuần thục mà điển hình là các thành tựu văn minh thường không phát triển đến đỉnh cao và sớm bị lụi tàn.
4. Tổ chức nhà nước và kết cấu xã hội
a. Tổ chức nhà nước
Cơ cấu tổ chức: Đứng đầu nhà nước là một ông Vua, dưới Vua là bộ máy quan lại trung ương (cồng kềnh, quan liêu) và cuối cùng là các hệ thống quan lại ở địa phương (quản lý phân chia ruộng đất, thu thuế, hành chính…) Công cụ bảo vệ nhà nước và duy trì trật tự xã hội là hệ thống nhà tù và lực lượng quân đội. Mối quan hệ chi phối chủ yếu giữa các cơ quan này là tô thuế.
Chức năng nhà nước: Có 3 chức năng chính đó là thu thuế và cai trị dân chúng; thực hiện công trình lớn (thủy lợi, kiến trúc…) và bảo vệ và mở rộng lãnh thổ.
Tính chất nhà nước: Các Nhà nước Phương đông cổ đại mang tính chất chuyên chế. Vua nắm giữ quyền lực tối cao cả về vương quyền lẫn thần quyền, vua được thần thánh hóa mang tính chất thế tục, đồng thời là người sở hữu tối cao toàn bộ ruộng đất; bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu. Tính chất này tồn tại lâu dài, chi phối nhiều mặt đến tiến trình hình thành và phát triển của các nền văn minh Phương Đông
Nguyên nhân dẫn đến tính chuyên chế
- Điều kiện tự nhiên: Thuận lợi cho sự tồn tại của con người, từ sớm đây là nơi quần cư, quần tụ đông đảo con người sinh sống cùng nhau khai thác thuận lợi của tự nhiên và con người cho nên bị cai trị về số đông
- Công việc trị thủy: Đòi hỏi sự huy động lớn về người và của, cần có nhiều người xuất hiện, vai trò của thủ lĩnh cộng đồng tự nguyện trao quyền, thủ lĩnh tiến hành luân phiên giữa các bộ lạc.
- Thái độ khiếp sợ và thuần phục tự nhiên, thần thánh hóa tự nhiên, vua được thần thánh hoá triệt để nhờ yếu tố tâm lý.
- Kẻ mạnh chinh phục kẻ yếu.
- Vũ khí công cụ thô sơ
b. Kết cấu xã hội:
Bao gồm hai giai cấp chính đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị:
- Giai cấp thống trị bao gồm vua, tăng lữ, quan lại và quý tộc. Giai cấp này chiếm số lượng ít nhưng lại sở hữu phần lớn tài sản và của cải trong xã hội. Các tầng lớp này kết cấu với nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc bóc lột sức lao động của giai cấp bị trị thông qua chế độ tuô thuế, sưu dịch…
- Giai cấp bị trị bao gồm: Thợ thủ công, thương nhân, nông dân công và nô lệ.
· Nông dân công xã: Chiếm 80% dân số đây là lực lượng chính, đồng thời họ cũng là đối tượng bị bóc lột chính. Do vậy, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa nông dân công xã và giai cấp thống trị, mâu thuẫn này chi phối tạo ra động lực cho sự phát triển xã hội. Đồng thời, họ cũng là những tầng lớp trực tiếp tạo ra quá trình sáng tạo nền văn minh cổ đại.
· Nô lệ: Chiếm số lượng không nhiều, không phải là tầng lớp áp đảo trong xã hội, chủ yếu là tù binh trong chiến tranh; nợ phải bán thân mình; phạm nhân bị giáng xuống làm nô lệ; nô lệ mẹ đẻ ra nô lệ con. Khác với Phương Tây nô lệ Phương Đông làm nô dịch trong các gia đình chủ nô hoặc trong các lĩnh vực sản xuất khác, hoạt động sản xuất có nhưng không nhiều, cho nên chế độ nô lệ ở phương Đông được gọi là chế độ chiếm hữu nô lệ không điển hình hay chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng.
Câu 5: Cơ sở hình thành văn minh Phương Tây cổ đại
1. Điều kiện tự nhiên:
- Hy – La cổ đại là hai quốc gia thuộc khu vực Địa Trung Hải, nơi giao nhau của các Châu Âu, Á và Phi. Đời sống và kinh tế của cư dân ở Hy-La gắn liền với biển – tính chất văn minh biển.
- Có ba mặt tiếp giáp với biển tạo nên địa hình mở, tiếp cận được các yếu tố văn Phương Đông nên mang tính chất văn minh mở.
- Khoáng sản: Phong phú, có nhiều mỏ quặng lộ thiên, làm xuất hiện khá sớm ngành khai khoáng và luyện kim. Đất đai cứng nên chỉ khi đồ sắt ra đời thì nông nghiệp mới được phát huy, khối dân cư ở đây mới có điều kiện phát triển, nhà nước mới bắt đầu xuất hiện nên gọi là văn minh đồ sắt.
- Khí hậu: mang tính ôn đới
- Địa hình: Gồm nhiều lục địa và các hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác trên biển Địa Trung Hải, ở Hy Lạp miền Bắc và miền Trung của Hy Lạp bị chia cắt bởi những dãy đồi hình thành các quốc gia thành bang. Hy Lạp là nơi xuất hiện nền văn minh sớm nhất ở Phương Tây.
2. Cư dân:
a. Hy Lạp:
Trước khi hình thành nhà nước Hy Lạp đã có cư dân sinh sống, đó là cư dân bản địa. Ngay từ đầu họ đã trở thành một khối dân cư với nhau, họ cùng nói chung một thứ tiếng, có chung một nền văn hóa. Sau đó Hy Lạp diễn ra một đợt thiên di kéo dài hơn 1.000 năm ghi nhận một số tộc người Dorien; Eolien; Eonien; Aclieens, những khối dân cư định cư rải rác khắp các vùng đất của lãnh thổ Hy Lạp. Trong quá trình sinh sống họ bình đẳng về mọi mặt. Đến đầu TNK I TCN tất cả các khối dân cư này đều nhận mình là con cháu của thần Hellene và họ tự gọi mình là Hellas – là chủ nhân của nền văn minh Hy Lạp.
b. La Mã
- Trước TNK III TCN tồn tại khối dân cư bản địa có tên gọi Ligures.
- Đầu TNK II TCN có đợt thiên di đến định cư tại bán đảo Ý.
- Khoảng thế kỷ X TCN người Etrusque từ Tiểu Á cũng thiên di đến bán đảo
- TKVIII TCN tòan bộ dân cư này nếu cư trú ở đồng bằng Latium thì gọi là người Latin.
- Từ đồng bằng Latin này thì một số người Latin rời bỏ Latium đến bờ sông Tibres họ xây dựng thành Roma, Năm 753 TCN trở thành công dân La Mã.
3. Kinh tế:
Khác với Phương Đông nền kinh tế Hy-La mang tính chất hàng hóa cổ điển, trong đó phát triển mạnh các lĩnh vực thủ công nghiệp, thương nghiệp. Chế độ tư hữu ruộng đất rõ rệt, các quá trình phân công lao động xã hội hình thành, lực lượng sản xuất chính là nô lệ.
- Nông nghiệp: Trồng trọt và chăn nuôi đã tách thành hai ngành riêng biệt.
+ Trồng trọt: quy mô canh tác khá lớn. Đất Hy Lạp – La Mã không phù hợp trồng cây lương thực. Sản phẩm chính là nho và ôliu, tạo nên nguyên liệu chính cho một số ngành thủ công nghiệp.
+ Chăn nuôi: Tiến hành theo mô hình bầy đàn không chuồng trại. Sản phẩm chăn nuôi khá cao, lượng sản phẩm phong phú, mọi sản phẩm thủ công nghiệp cũng được coi là hàng hóa để trao đổi.
- Thủ công nghiệp: Đã tách khỏi nông nghiệp, phát triển khá đa dạng về ngành nghề với quy mô lớn (khai khoáng mỏ). Là ngành chủ đạo của nền kinh tế.
- Thương nghiệp: Là ngành kinh tế chủ đạo, đặc biệt là mậu dịch hàng hóa, sớm mang tính quốc tế. Sản phẩm bán: Rượu nho; dầu ôliu; kim loại; đồ gồm; vải.. Sản phẩm mua: lương thực; giấy; hương liệu; gia vị; và đặc biệt là nô lệ.
Xuất hiện đồng tiền sớm và có thể sử dụng ở nhiều vùng đất khác. Điều này dẫn đến xuất hiện một bộ phận chuyên làm nghề đổi tiền, chuyển tiền, nhận tiền, cho vay lấy lãi – hình thành nên các ngân hàng cổ điển.
Nhìn chung, nền kinh tế Hy-La cổ đại khá phát triển. Lao động nô lệ làm cho quý tộc thoát ly khỏi lao động chân tay và có điều kiện hoạt động và sáng tạo ra các thành tựu văn minh rực rỡ của hai nền văn minh này.
4. Nhà nước và kết cấu xã hội
a. Nhà nước: Các nhà nước Hy-La hình thành trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I TCN, trên cơ sở tan rã của thị tộc và hầu như không có sự can thiệp của bạo lực.
Xuất hiện nhiều hình thức nhà nước khác nhau như thành bang; đế chế; cộng hòa; quân chủ
b. Kết cấu xã hội:
Xã hội Hy-La cổ đại chia thành hai phần, đó là dân cư tự do và nô lệ. Dân tự do bao gồm quan lại , chủ nô (giai cấp bóc lột), công dân (các tầng lớp này được nhà nước và pháp luật bảo vệ) và bình dân. (không phải là bình dân nhưng cũng không phải là nô lệ).
Nô lệ chiếm số lượng đông nhưng không được thừa nhận về thân phận, nô lệ được xem là tài sản của chủ nô “công cụ lao động biết đi, biết nói”. Mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nô và nô lệ.
Câu 6: Thành tựu chữ viết và Khoa học tự nhiên của Ai Cập
Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, hạ lưu sông Nin. Sông Nin là một con sông dài nhất thế giới, khoảng 6500 km chảy từ Trung Phi lên Bắc Phi. Hàng năm, tới mùa mưa nước sông Nin cuồn cuộn đỏ phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin. Đất đai màu mỡ, cây cỏ tốt tươi, các loài động thực vật phong phú, nên ngay từ thời nguyên thuỷ con người đã tập trung sinh sống ở đây đông hơn các khu vực xung quanh.
Cách ngày nay khoảng 6000 năm, con người ở đây đã biết sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng. Công cụ bằng đồng giúp con người ở đây chuyển sang sống chủ yếu nhờ nghề nông, thoát khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh
1. Chữ viết:
Chữ viết của Ai Cập cổ đại xuất hiện rất sớm là chữ viết đầu tiên của nhân loại, xuất phát từ hai nguyên nhân: tôn giáo và nhu cầu tự sùng bái cá nhân.
- Chữ viết đầu tiên của người Ai Cập là chữ tượng hình: dùng hình vẽ khác nhau để diễn đạt các thông tin trao đổi.
Hạn chế lớn nhất của chữ tượng hình là không diễn đạt được những thông tin mang tính trừu tượng như trạng thái, cảm xúc..
- Để khắc phụ hạn chế này, người Ai Cập đã tiến đến việc liên kết các hình vẽ lại với nhau, giảm lược bớt những chi tiết thừa hoặc mượn đặc điểm của một vật nào đó để diễn đạt một ý trọn vẹn hơn nên xuất hiện chữ chỉ ý.
- Tuy nhiên, chữ chỉ ý cũng chưa đủ để ghi mọi âm thanh do con người phát ra nên dần dần xuất hiện những hình vẽ thể hiện âm tiết. Hình vẽ biểu thị một từ nhưng đồng âm với âm tiết mà người ta muốn sử dụng nghĩa, gọi là chữ chỉ âm, đây là giai đoạn quá độ phát triển thành giai đoạn chữ cái.
Trong nhận thức, trước hoàn cảnh lịch sử của Ai Cập không cho phép ký hiệu này thành bảng chữ cái của người Ai Cập, không những thế hệ thống chữ viết tượng hình của người Ai Cập hòan toàn biến mất trong 3 thế kỷ đầu sau CN.
Nhìn chung chữ viết Ai Cập thường được dùng trong các bộ binh, những lời giáo giảng của tôn giáo nên còn có tên là thánh thi.
Hệ thống chữ tượng hình của người Ai Cập gần 1.000 ký tự và hơn 20 dấu chữ âm, đây là loại chữ khó học, khó viết, khó nói, khó nhớ nên người dân ít sử dụng, chỉ có tầng lớp tăng lữ và các viên thư lại cùng con em của họ mới có khả năng học và sử dụng.
Nguyên liệu viết của họ là giấy Papyrus, các bia đá, các bức tượng, các đền thờ, lăng mộ, gốm, vải gai, da. Mực viết thì làm bằng bồ hống, bút viết là thân cây bồ hống
Năm 332 TCN Ai Cập trở thành một bộ phận của Hy Lạp, kể từ đó người Ai Cập đã tiếp thu và sử dụng bảng chữ cái Alphabet của người Hy Lạp để ghi lại tiếng nói của mình, hình thành chữ Copte. Sự thuận tiện, dễ đọc, dễ nói nên loại chữ này dần thay thế chữ tượng hình trước kia. Chữ tượng hình của Ai Cập trở thành tử ngữ (không còn ai học và sử dụng nữa)
* Khoa học tự nhiên:
1. Tóan học
Là một trong những thành tựu xuất hiện khá sớm bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực tế cuộc sống của chính người Ai Cập. Tóan học Ai Cập ra đời từ rất sớm và phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực: Số học; đại số và hình học
* Số học: Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0.
- Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu là công trừ liên tiếp
- Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số
- Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số
* Đại số: Biết giải phương trình 1 ẩn
Tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân
* Hình học: Biết giải các bài toán tìm diện tích của hình vuông, hình chữ nhật, hình thang….
Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương…
Tìm ra cấp số π = 3.16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng
2. Thiên văn học
Là lĩnh vực rất được chú trọng, với những dụng cụ hết sức thô sơ, người Ai Cập theo dõi sự lên xuống của mực nước sông Nile và quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, thông qua đó họ cũng xác định được bản đồ của 12 cung hoàng đạo vẽ được chòm sao Bắc cực và biết đến hành tinh trong Thái Dương hệ.
Đặc biệt để có thể xác định thời gian ban ngày, người Ai Cập đã sáng tạo được cái để đo thời gian ban ngày gọi là Nhật Khuê, giúp người Ai Cập biết được thời gian chính xác hơn.
Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế khi trong thời gian ban đêm và trời mưa (không có nắng) vì vậy vào ban đêm họ sử dụng dụng cụ để đo thời gian gọi là đồng hồ nước, nó khắc phục hạn chế của Nhật Khuê. (người Trung Quốc là Trích lậu hộ).
3. Lịch pháp (sự ra đời của hệ thống lịch Ai Cập)
Là kết quả từ quá trình quan sát thiên văn qua quá trình quan sát bầu trời và mực nước sông Nile họ phát hiện ra một mối quan hệ giữa mực nước sông Nile và sao Thiên Lang.
Một buổi sáng sớm một ngày mùa hè khi ngôi sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân trời đó là thời điểm nước sông Nile lên cao, chu kỳ này của sao Thiên Lang là khoảng 365 lần mặt trời mọc xuất hiện.
Từ mối quan hệ trên người Ai Cập đã lấy 365 ngày tính làm thời gian cho 01 năm.
Dựa vào 12 tháng hoàng đạo, 1 năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng 60 ngày, còn dư 5 ngày xếp vào cuối năm làm ngày lễ.
Họ chia 1 năm thành 3 mùa
- Mùa nước lên
- Mùa ngũ cốc
- Mùa thu hoạch
Lịch Ai Cập tương đối chính xác
Năm 45 TCN Julius Ceasae cho mời nhà thiên văn Sasigene từ Ai Cập về Roma để cải cách lịch La Mã trên cơ sở lịch Ai Cập, hình thành lịch Julien
4. Y học
Thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực y học là kỹ thuật ướp xác, ở Ai Cập cổ đại, việc ướp xác khá phổ biến, xuất phát từ 2 nguyên nhân tín ngưỡng và điều kiện tự nhiên.
Câu 7: Thành tựu văn học (bộ kinh của tôn giáo) và tôn giáo của Ấn Độ
Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương.
Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn.
Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 Tr. C.N.) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.
1. Văn học
Văn học Ấn Độ thể hiện chủ yếu tập trong cả hai lĩnh vực đó là các bộ kinh của các tôn giáo và đặc biệt là sử thi. Nội dung thường gắn với quan điểm triết học, tôn giáo nhằm để giải thích vũ trụ, con người và biểu lộ ước vọng của con người trong cuộc sống.
Các kinh của tôn giáo: tập trong kinh Veda.
Kinh Veda: gồm 4 phần có 10.562 câu
Kinh Veda: Gồm những bài kinh ca tụng thần thánh, phản ánh phong tục, đời sống, chính trị và kinh tế xã hội của người Aryan thời kỳ xâm nhập vào Ấn Độ.
Sama veda: những bài kinh ca trong khi hành lễ
Yajue veda: nhũng bài hát, công thức tế bằng văn xuôi, dạy về cách hành lế …
Athara veda: Những công thức mang đầy tính ma thuật phù thủy hay cách đọc những câu thần chú trong các dịp cầu nguyện
Tam tạng kinh điển của phật giáo
Kinh tạng: Những lời thuyết giảng của đức phật
Luật tạng: những quy định các giới luật của luật giáo
Kinh tạng và luật tạng đựợc ghi lại tại đại lợi kết hợp phật giáo lần 1
Luật tạng: làm rõ hơn những điều trong kinh và luật
2. Tôn giáo
a. Nguyên nhân và bối cảnh ra đời của đạo Phật:
Xã hội:
Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, ở Ấn Độ từ những công xã cổ xưa đã hình thành hàng loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu quốc). Các vương quốc thường có điều kiện tự nhiên khác nhau (do vùng đất đai rộng lớn). Kinh tế, xã hội, chính trị cũng phát triển không đều nhau. Do vậy, các vương quốc này luôn tồn tại những mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau. Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên và đến thế kỷ V TCN, chỉ còn lại 4 quốc gia: Kashi, Koshala , Magadha , Virigis.
- Các cuộc chiến tranh đã lôi kéo người dân phải tham chiến, tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
- Mâu thuẫn giữa đẳng cấp Brahma với Ksatria: sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ.
+ Brahman: thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác (của cải không người thừa kế sẽ thuộc về Brahman - Bà la môn)
+ Ksatria: vua quan, quý tộc - bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp Brahman và bị Brahman chi phối.
+ Vaisya: cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa, thất thu (chiến tranh) nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
+ Soudra: có thêm một số vaisya bị phá sản trở thành nô lệ, số khác thì phải đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lý chán nản, tuyệt vọng trông chờ một con đưỡng giải thoát khỏi thực tại khổ đau.
Chế độ đẳng cấp trở thành sự bức xúc lớn trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
* Kinh tế:
- Công cụ kim loại đồng thau và sau đó là đồ sắt đã làm thay đổi bản chất của sản xuất. Vua Magadha quan tâm phát triển nông nghiệp. Song song đó, nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng làm xuất hiện tầng lớp thương nhân. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp Soudra. Nhưng họ là tầng lớp có tiềm lực kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp.
Tôn giáo:
Sau một thời gian hình thành và phát triển đã được củng cố: giáo lý và luật lệ rất chặt chẽ, nghi thức cúng bái rất phức tạp, chế độ đẳng cấp càng trở nên vững chắc.
Cuộc sống cực khổ càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna ), không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những điều thuyết giảng của tăng lữ Bàlamôn không còn đủ sức thuyết phục, an ủi và xoa dịu cuộc sống của dân chúng. Những lễ nghi phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lý ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giào này.
Trong bối cảnh đó, vào thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại (khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỷ - Jain), nhưng có một điểm chung là: trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn.
Học thuyết của Đạo Phật:
- Dưới góc độ triết học, giáo lý đạo Phật mang tính chất nhị nguyên luận (vừa có tính duy tâm, vừa có tính duy vật).
+ Duy tâm: kế thừa một số tư tưởng của đạo Bàlamôn về thuyết luân hồi - nhân quả - khái niệm Niết bàn - nghiệp báo...
+ Duy vật: Đức Phật không tôn thờ thần và không tự coi mình là thần, thừa nhận sự biến đổi, phủ nhận sự tồn tại bất diệt và vĩnh viễn của tất cả sự vật. Vật chất và tinh thần đều biến hóa, có sinh có diệt (vô thường: chuyển biến, thay đổi, không có gì là bất biến diễn ra trong từng đơn vị - sátna vô thường; vô ngã: không thể có cái ta tồn tại vĩnh viễn).
Tư tưởng
- Hòn đá tảng căn bản trong tư tưởng của Phật là thuyết Tứ diệu đế (bốn chân lý kỳ diệu), bao gồm:
+ Khổ đế: đời là bể khổ, bất trắc, không toại nguyện trong cuộc sống (sinh, lão, bệnh, tử).
+ Tập đế: chân lý về nguyên nhân nỗi khổ, do người ràng buộc nhiều ham muốn.
+ Diệt đế: chân lý chấm dứt nỗi khổ, diệt ham muốn.
+ Đạo đế: con đường diệt khổ dẫn đến giác ngộ, giải thoát tiến đến Niết bàn. Đạo đế gồm tám con đường diệt khổ, gọi là Bát chánh đạo:
1. Chánh Kiến: tín ngưỡng đúng đắn.
2. Chánh Tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
3. Chánh Ngữ: nói năng đúng đắn.
4. Chánh Nghiệp: hành động đúng đắn.
5. Chánh Mệnh: sống đúng đắn.
6. Chánh Tịnh tiến: mơ tưởng ước mơ đúng đắn.
7. Chánh Niệm: tưởng nhớ đúng đắn.
8. Chánh Định: tập trung tư tưởng, ngẫm nghĩ đúng đắn.
Phật khuyên con người không sát sinh: cấm giết người, còn động vật không khắt khe. Việc ăn chay do vua Lương Vũ Đế ( Trung Quốc - VI SCN) đặt ra (giảng thêm).
- Thuyết Thập nhị nhân duyên (duyên khởi)… Ví dụ cây nảy mầm
Có thể nói, ban đầu những tư tưởng của Phật là một học thuyết khuyên người phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện, tu thân tích đức để được giải thoát chứ không thừa nhận thượng đế và thần thánh. Do vậy, Phật chủ trương không cần cúng lễ, nghi thức và không có tầng lớp tăng lữ, thầy cúng.
b. Quá trình truyền bá đạo Phật ở Ấn Độ:
Năm sinh Đức Phật: 624-544 TCN, Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu Phật lịch (2548 = 2004); ý kiến khác 563-483 TCN.
Đạo Phật ra đời trong thời kỳ hưng thịnh của Bàlamôn. Nhưng với giáo lý từ bi, bác ái chống đạo Bàlamôn hà khắc, nên nhanh chóng chiếm cảm tình của mọi tầng lớp nhân dân.
Sau khi Phật tịch, các môn đệ tập trung và ghi chép lại lời giảng của Phật theo trí nhớ và cách hiểu của mình. Nhưng cách hiểu và nhớ khác nhau, do vậy Kinh - giáo lý nhà Phật, được chỉnh ly), ghi chép lại qua 4 lần đại hội kết tập, hình thành nên bộ Kinh Tam Tạng.
+ Đại hội I (thế kỷ V TCN) tại Magađa - quốc gia mạnh nhất Ấn Độ lúc đó. Có 500 tăng ni họp trong 7 tháng, soạn ra Luật tạng (Đại Ca diếp hỏi, Upali ttrả lời) và Kinh tạng (do trưởng lão A-nan giải đáp, còn gọi là Kinh Điển ngũ Bộ: Trường Bộ kinh, Trung Bộ kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh và kinh Tiểu Bộ). Luật: cách hành lễ, ăn mặc… Kinh: ghi chép lại lời giảng của Phật. Lúc đầu Kinh và Luật được các tỳ kheo học thuộc lòng, chỉ đến Hội nghị kết tập lần 3 mới được viết trên lá bối đa.
+ Đại hội II (thế kỷ IV TCN, khoảng 100 năm sau lần I): 700 tăng ni, diễn ra trong 8 tháng.
Tại Hội nghị kết tập này có hai ý kiến khác nhau: Một số chủ trương tuân thủ truyền thống của chư tăng, gọi là Thượng tọa bộ (những người hộ trì giáo lý của các Thượng tọa); một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại Luật Tạng, gọi là Đại chúng bộ (những người của đại chúng) nhưng không được Hội đồng kết tập chấp thuận - đây là tiền thân của phái Đại Thừa sau này.
Tại đại hội này đã đưa ra chủ trương xây dựng chùa, thờ cúng Phật, tạc tượng Phật, đặt các lễ.
+ Đại hội III (253 TCN): 1000 tăng ni, diễn ra trong 9 tháng.
Diễn ra dưới sự bảo trợ của Ashoka - vua của Vương quốc Magađa, một trong những vị vua nổi tiếng nhất Ấn Độ cổ đại. Ashoka có công trạng rực rỡ nhưng tàn sát ác liệt nên sau đó bị day dứt, ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng giết chóc. Ông đã sám hối, trở thành tín đồ và dốc lòng thờ Phật sau trận đánh ở Kalinga (260 TCN).
Lúc này khuynh hướng phân liệt nghiêm trọng nên Đại hội chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý, bổ sung và cho ra đời Luận tạng. Như vậy, kể từ Hội nghị này, Phật giáo có đủ Tam Tạng ( 3 cái giỏ hay 3 cái kho, tương truyền nhà sư Huyền Trang thuộc làu 3 bộ kinh này nên được gọi là Tam Tạng). Trong thời trị vì, Ashoka đã tuyên bố đạo Phật là quốc giáo, đánh dấu thời kỳ phát triển cực thịnh của Phật giáo ở Ấn Độ thời cổ đại. Đồng thời, Ashoka tiến hành xây doing nhiều chùa, tháp, thành lập nhiều tăng đoàn và khuyến khích việc truyền bá Đạo Phật đến hiều vùnh trên bán đảo Ấn Độ và một số các quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma, Thái Lan, Indo…).
Thế kỷ IV - III tr. CN là thời kỳ Phật giáo phát triển nhất ở Ấn Độ.
Sau khi Magađa tan rã (322 TCN), đạo Phật suy yếu và dần mất đi vị trí thống trị trong đời sống tâm linh của cư dân.
+ Đại hội IV: 500 tăng ni.
Đến thế kỷ I SCN, người Kusan chiếm Tây Bắc và thành lập nhà nước của mình. Vua Kusan là Kanisha rất tôn sùng Đạo Phật nên ông đã tài trợ Đại hội kết tập lần IV của Phật giáo (khoảng năm 100).
Tại Đại hội này đã thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách (Đại thừa) để phân biệt phái cũ (Tiểu thừa). Song song đó là tiến hành chỉnh lý lại văn bản Tam tạng kinh điển (với 300.000 bài tụng với 9.600.000 từ, trong đó: Kinh sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Kinh, Luật sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Luật, Luận sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Luận) và khắc thành những bảng đồng lưu giữ trong bảo tháp. Phật giáo tiếp tục được truyền sang các quốc gia Trung Á, Trung Quốc...
* Tiểu thừa và Đại thừa: là hai tông phái của Phật giáo, có cách giải thích khác nhau về giáo lý Phật giáo). Tôn chỉ, mục đích giống nhau, nhưng khác phương tiện, con đường tu hành và giải thoát.
- Tiểu thừa: trung thành, coi trọng ý nghĩa ban đầu của Phật giáo, tu theo từng nhóm nhỏ mang tính cá nhân, tự giác.
- Đại thừa: mở rộng giáo lý Phật giáo trong nhiều bộ kinh khác nhau, giải thoát cho nhiều người.
Sau những thế kỷ phát triển thịnh đạt khoảng 1.000 năm, từ VI TCN - V CN, Phật giáo ở Ấn Độ bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái: giáo lý uyên thâm, khó hiểu vượt khỏi tầm hiểu biết của quần chúng. Từ đó Hindu đã lấn át phần nào, do vậy phạm vi ảnh hưởng Phật giáo ngày càng thu hẹp lại trước sự phát triển của Hindu và Hồi giáo.
* Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ:
- Không thống nhất về học thuyết và tổ chức.
- Chỉ phát triển trong thành phố (thành phần ủng hộ đầu tiên là Ksatrya, (thương nhân), những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn.
- Trong 3 thế kỷ, Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội.
- Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật giáo nên dần thu hút dân chúng.
- Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí.
- Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.
Câu 8: Chữ viết của Trung Quốc
Chữ Trung Quốc, hay còn gọi là chữ Hán, là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung Quốc. Chữ Trung Quốc có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước.
- Vào nửa đầu thế kỷ III TCN Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ tượng hình nhưng đến thời nhà Thương chữ viết Trung Hoa mới thực sự hình thành và được gọi là Giáp cốt văn (chữ được khắc trên mai rùa và xương thú). Đây là chữ tượng hình có ký tự rời rạc, mang nghĩa đơn, về sau phát triển thành biểu ý (ý đồ) và hài thanh (đọc được). Tổng số chữ Giáp cốt văn khoảng 4500 chữ.
- Đến thời Tây Chu để ghi lại những sự kiện lớn xuất hiện chữ Kim văn (viết trên kim loại), chữ Chung đỉnh văn và chữ Thạch văn (viết trên đá). Về bản chất chữ Kim văn không có gì khác so với chữ Giáp cốt văn – vẫn là chữ tượng hình nhưng số lượng chữ viết ngày càng nhiều hơn, cách viết đơn giản và gọn gàng hơn. Các loại chữ này được gọi chung là chữ đại triện
- Đến thời Xuân Thu – Chiến quốc chữ viết Trung Hoa ngày càng phát triển, cách viết cũng đơn giản, gọn gàng hơn. Tuy nhiên thời kỳ này do đất nước loạn lạc nên chữ viết không có sự thống nhất. Cho nên đến thời nhà Tần đã cải cách thành chữ tiểu triện (chữ giới hạn trong một hình vuông).
- Đến thời nhà Hán trở đi chữ Trung Quốc đã ổn định và phát triển theo các loại chữ:
- Lệ Thư: Là loại chữ rất thông dụng thời nhà Hán, lúc đầu là các nét cong tròn, sau đó là nét mác lượn sóng.
- Khải thư: Xuất hiện cuối thời nhà Hán và phát triển đến nay là chữ viết ngay ngắn có tên khác là chính thư, chân thư.
.
- Thảo thư: là một dạng viết nhanh của chữ Lệ thư nên có tên khác là Thảo lệ, viết liền nhau, khó đọc, xuất hiện đầu nhà Hán
- Trên cơ sở chữ Thảo thời nhà Đường xuất hiện loại chữ Cuồng Thảo (mang tính trang trí nhiều hơn)
- Hành thư: được dùng phổ biến trong thời Tam Quốc
- Giản thể: là chữ viết thông dụng hiện nay, nó được đơn giản hóa
- Từ thập niên 50 TK XX chữ này được chỉnh lý và sửa chữa.
- Chữ Trung Quốc không trở thành tử ngữ bởi vì nó tự điều chỉnh trên hai chức năng chỉ âm và chỉ ý để phù hợp với cuộc sống.
Câu 9: Tư tưởng trùng phái pháp gia (trị nước) đường lối xây dựng đất nước
Pháp gia xuất hiện từ thời Xuân Thu, là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Người khởi xưởng tư tưởng này là Quản Trọng, người nước Tề sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ VII TCN. Kế thừa ông có nhiều pháp gia sau đó, đặc biệt là Hàn Phi, người đã tập hợp tư tưởng của các nhà pháp gia trước đó và viết thành sách Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã đề xuất một hệ thống chính trị lấy Pháp, Thế và Thuật làm nội dung cơ bản:
- Pháp: là pháp lệnh thành văn của quốc gia, được xem là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, tỏ rõ thị phi, phân rõ tốt xấu, để mọi người biết bổn phận, trách nhiệm của mình, biét điều phải làm và điều không được làm. Pháp phải được ban hành công khai và thi hành nghiêm minh.
- Thế: Người đầu tiên đề cập là Thận Đáo. Thế tức là quyền thế, địa vị, thể lực, quyền uy của người đứng đầu. Địa vị của người trị vì là độc tôn, mọi người buộc phải tuân theo.Vua có quyền lực tối cao. Trong việc trị dân, địa vị quyền thế của vua mới là trọng yếu, còn đức không quan trọng.
- Thuật: là phương pháp, thủ thuật, cách thức mưu lược điều khiển công việc và dùng người, khiến người triệt để tận tâm thực hiện pháp lệnh của vua mà không hiểu vua dùng họ như thế nào. Nếu Pháp phải bằng mọi cách công bố, công khai thì Thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn, mưu lược của vua. Thuật bao gồm ba nội dung chính là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt.
* Đường lối xây dựng đất nước:
Chủ trương tập trung sản xuất nông nghiệp và chiến đấu. Còn văn hóa giáo dục thì không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà thậm chí còn có hại cho xã hội. Hàn phi nói “Người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật rối loạn, người lao động bằng sức lực ít thì nước nghèo, ngày nay loạn lạc chính là vì như thế. Bởi vậy, nước của vị vua sáng suốt không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời trước, dùng quan lại làm thấy giáo”.
Áp dụng đường lối Pháp gia, nhà Tần đã cũng cố đất nước, phát triển thành một chư hầu giàu mạnh thời Chiến quốc và sau đó thống nhất Trung Hoa. Thế nhưng, trường phái này quá nhấn mạnh hình pháp, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục. Ngược lại, sự phát triển của văn minh làm cho mâu thuẫn xã hội phát triển. Và đây cũng chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nhà Tần sụp đổ nhanh chóng.
Câu 10: Thành tựu chữ viết và thần thoại của Hy Lạp
a. Chữ viết: Chữ viết Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện từ thời văn minh Crete- Mycene, gồm hai loại:
- Loại I: là loại chữ tượng hình thuần túy, ghi lại hình người, động vật, cây cỏ, đồ vật… Đây là loại chữ cổ nhất, xuất hiện khoảng vào thiên niên kỷ II TCN.
- Loại II: Là loại chữ đơn giản được cấu tạo bởi đường nét ngắn gọn đều đặn, có sự thống nhất cách viết. Loại này được chia thành hai loại nhỏ: Loại A khoảng năm 1700 đến 1400 TCN. Loại B khoảng 1400 đến 1200 TCN.
Chữ viết này biến mất cùng nền văn hóa Crete – Mycene vào thế kỷ XII TCN.
Vào khoảng thế kỷ thứ XI đến IX TCN Hy Lạp không có chữ viết, sau đó đầu thế kỷ thứ XVIII TCN ở Hy Lạp đã xuất hiện lại chữ viết đã được hình thành dưới dạng bảng chữ cái Alphabet, được hình thành trên cơ sở bảng chữ cái Phoenicien là bảng chữ cái đầu tiên của nhân loại. Chữ này phát triển từ những ký hiệu chỉ âm trong hệ thống chữ viết của người Ai Cập và người Lưỡng Hà cổ đại. Bảng chữ cái Phoenicie gồm 22 chữ, không có nguyên âm. Phoenicien (có nghĩa là du mục trên biển) trong quá trình giao lưu tiếp xúc với người Phoenicien người Hy Lạp đã tiếp thu kế thừa và sáng tạo ra bảng chữ cái Hy Lạp, qua nhiều lần thay đổi về số lượng cuối cùng tồn tại 24 chữ cái khác nhau. Trong đó người Hy Lạp đã chia thành 18 ký hiệu phụ âm và 6 nguyên âm với cách ghép chữ hết sức linh hoạt giữa phụ âm và nguyên âm để ghi lại tiếng nói của người Hy Lạp. Do vậy, nó có khả năng diễn đạt mọi khái niệm trừu tượng nhất cũng như quá trình tư duy của con người. Đây là hệ thống chữ chỉ âm và ghi âm, là một trong các loại chữ tiến bộ nhất, hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ và đó là nguồn gốc hình thành những loại chữ viết khác sau đó. Chữ Hy Lạp ảnh hưởng đến vùng đất lãnh thổ Hy Lạp ở xung quanh Địa Trung Hải và một số vùng lân cận khác.
b. Thần thoại: Là một trong những hình thái văn học xuất hiện sớm nhất ở Hy Lạp, cung cấp cho văn học, thơ kịch và lĩnh vực nghệ thuật những đề tài vô tận.
Thần thoại Hy Lạp là tâphợp, tổng thể những truyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kỳ ảo, phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong việc đấu tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, sự hình thành thế giới, phản ánh cuộc sống lao động và những hoạt động đời thường của chính người Hy Lạp.
Về sau khi có chữ viết, kho tàng thần thoại này được Hesios (nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỷ VII TCN) hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các vị thần. Hệ thống các vị thần Hy lạp không phải là lực lượng xa vời và đáng sợ đối với con người như các thần ở Phương Đông. Họ là những hình tượng gần gũi, có những phẩm chất, cá tính như con người: yêu, ghét, giận hờn..
Nhìn chung, thần thoại Hy Lạp dù hoang đường, dù có màu sắc thần thánh nhưng ít bị tôn giáo đồng hóa, ít bị hòa vào tôn giáo. Nên ngay từ đầu thần thoại Hy Lạp vừa mang tính chất hoang đường những cũng mang đậm tính lịch sử xác thực, phản ánh trạng xã hội, duy lý và triết lý.
Câu 11: Thành tựu khoa học tự nhiên của La Mã
Người La Mã được thừa hưởng, tiếp thu có chỉnh lý, bổ sung tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên của người Hy Lạp, nhưng trong lĩnh vực này, người La Mã mang tính thực dụng cao, vận dụng nhanh chóng vào sản xuất, xây dựng và nghệ thuật. Những tên tuổi tiêu biểu:
- Pline: là tác giải của tác phẩm Vạn vật, được xem là bộ bách khoa toàn thư, tổng kết những thành tựu khoa học kỹ thuật thời cổ đại về các lĩnh vực địa lý, sinh học, nông học, y dược, kiến trúc, hội họa..
- Ptolemée: là tác giả của tác phẩm Hệ thống vũ trụ, ông chỉ ra rằng trái đất hình tròn nhưng lại sai lầm khi cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Ông cũng vẽ ra được bản đồ thế giới nhưng chỉ gồm ba châu Á, Âu, Phi và lấy Địa Trung Hải làm trung tâm. Đến nay, bản đồ này không còn giá trị khoa học nhưng được xem là chính xác nhất lúc đó.
- Y học: tiêu biểu là Gallene ông đã tổng kết tri thức y học từ thời Hypocrates trở đi, viết nên nhiều luận văn về y dược và giải phẩu, đề xuất phương pháp thực nghiệm qua và tiến hành giải phẩu nhiều động vật.
Câu 12: Tôn giáo của La Mã
* Những tiền đề hình thành:
Ki - tô giáo ra đời ở vùng Đông của đế quốc La Mã vào khoảng thế kỷ I sCN thuộc địa phận của Palestin, là sản phẩm của chế độ chiếm hữu nô lệ. Có thể nói đến một số tiền đề ra đời của Kitô - tô giáo ở La Mã sau:
- Về mặt xã hội:
Năm 63 TCN, tại vùng đất Palestin, nơi người Do Thái sinh sống đã xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã. Pompei - một trong 3 nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La Mã - đã đem quân chinh phục vùng đất này, áp đặt chế độ cai trị và bóc lột hết sức hà khắc với cư dân ở đây (trực tiếp cai trị hoặc chỉ định hoàng tử người Palestin cai trị theo chủ trương và phục vụ quyền lợi của người La Mã). Chính vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị và bóc lột của nhà nước và chủ nô La Mã đặc biết là người Zealot nhưng đều lần lượt thất bại và bị đàn áp hết sức dã man. Dưới ách cai trị của La Mã, cư dân ở đây phải gánh chịu cuộc sống hết sức cực khổ, những bất công của xã hội, cuộc sống không lối thoát. Chính vì thế, trong khối quần chúng, nhất là nô lệ và dân nghèo bắt đầu nảy sinh tâm lý bi quan, chán nản, tuyệt vọng trong cuộc sống hiện thực. Do đó, học hướng vào một sự giải thoát, trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên có thể giúp họ thoát khỏi ách thống trị của chủ nô La Mã, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng.
- Về tôn giáo:
Như trên đã nói, vùng đất Palestin là vùng đất sinh sống chủ yếu của người Do Thái, một tộc người chịu nhiều bất hạnh trong lịch sử của mình. Tổ tiên của họ là người Hebre, một tộc người sống du mục nay đây mai đó. Khoảng giữa thế kỷ XIII TCN, dưới sự dẫn dắt của Moises người Do Thái đã từ Ai Cập trở về Palestin và sau đó đã lập nên quốc gia Do Thái (vào khoảng cuối thiên niên kỷ II TCN). Cũng kề từ đó, người Do Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ vị thần duy nhất đó là Chúa Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ tin rằng, dân tộc Do thái là dân được Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với người Do Thái, thông qua Sứ giả của Người là Moises. Năm 586, quốc gia Do thái bị đế quốc Tân Babilon cai trị, nền độc lập của quốc gia này đã không còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó.
Trong bối cảnh như vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên truyền rằng sẽ có một vị Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ của con người, giải cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân.
- Về tư tưởng triết học:
Từ giữa thế kỷ I TCN trở đi, nhà nước La Mã đã chuyển dần từ hưng thịnhsang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy trì trật tự xã hội. Do vậy triết học La Mã chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với trường phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ IV TCN. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của Seneque và Philo.
+ Seneque: (cuối thế kỷ I TCN - đầu TK I s.CN): ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và nhẫn nhục. Ông cho rằng thể xác là gánh nặng của linh hồn, là sự trừng phạt đối với linh hồn. Cuộc sống trần gian chỉ là khúc dạo đầu cho thế giới bên kia của linh hồn - thế giới con người sau khi chết. Cái thế giới bên kia ấy, nô lệ - nghèo khó, giàu có - quý tộc đều có thể đạt được như nhau, nếu con người biết nhẫn nhục, nhường nhịn, chịu đựng gian khổ, lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp nhất của con người.
+ Philo: (nửa đầu thế kỷ I s.CN): thế giới vật chất, trong đó có cả con người là can nguyên của tội lỗi, thể xác là ngục thất của linh hồn. Giữa thể xác và linh hồn có một vực thẳm không thể đến với nhau được và trung gian của vực thẳm đó là cái mà ông gọi là Thiên Đạo - Đấng Cứu Thế. Con người muốn được giải thoát chi cần có niềm tin và một cuộc sống đạo đức.
* Giáo lý cơ bản của Ki - tô giáo:
Buổi ban đầu, Ki - tô giáo là tôn giáo của dân nghèo và nô lệ. Chúa Jesus đã kêu gọi và tuyên truyền sự bình đẳng giữa người với người, giữa người nô lệ với người tự do. Chúa Jesus còn tuyên truyền về "đạo đức của Thượng Đế" và "lòng tin vào Thiên Chúa".
Với nhà nước La Mã, Ông còn cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi và sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Ki - tô giáo sẽ được sống trong vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới nhằm phủ nhận sự tồn tại của chế độ và nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã, phù hợp với nguyện vọng của dân nghèo và nô lệ.
Khi mới hình thành, Ki - tô giáo không đòi hỏi các lễ nghi phiền toái, không có những điều cấm kỵ nghiêm ngặt; các tín đồ được tổ chức tập trung trong các công xã Ki - tô giáo mà ở đó mọi người đều sống tương thân tương ái, duy trì cuộc sống bình đẳng đồng thời lên án những người giàu có và kẻ bóc lột.
Câu 13. Sự ra đời các thành thị
Vào thế kỷ X và XI kinh tế Tây Âu đã có những bước phát triển, các thành thị Tây Âu đã bắt đầu xuất hiện nhờ những bước tiến quan trọng của nông nghiệp và thủ công nghiệp. Những thành thị đầu tiên hình thành trên các thành phố cổ thời La Mã, hoặc là những tụ điểm thuận lợi về giao thông như các bến đò, đầu cầu, ngã ba sông, các trung tâm tôn giáo… về sau do nhu cầu phát triển thành thị đã có phố xá, cửa hiệu, chợ, nhà thờ … rất sầm uất.
Sự ra đời của thành thị đánh dấu sự phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Son, thành thị với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế hàng hóa đã trở thành yếu tố phá hoại ngay trong lòng chế độ phong kiến. Nền kinh tế hàng hóa phát triển làm tan rã nhanh chóng nền kinh tế tự nhiên và chế độ nông nô. Kinh tế hàng hóa cũng làm cho mối liên hệ giữa địa phương thêm chặt chẽ, tạo điều kiện hình thành các quốc gia thống nhất.
Câu 14: Sự ra đời của các trường Đại học
Sự phát triển kinh tế, nhất là thành thị và thương mại quốc tế dẫn tới sự gia tăng yêu cầu hiểu biêt về tri thức. Yếu tố sản xuất hàng hóa đòi hỏi biết đọc, viết, các phép tính. Tình trạng mù chữ, thất học không thể duy trì; song song các trường của giáo hội không đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Thế kỷ thứ X, xuất hiện nhiều trường thế tục của nhân dân, đầu tiến ở Ý, sau đó các thành thị khác –cơ sở ra đời các trường đại học.
- Sớm nhất là Bologna – Ý thế kỷ XI, trước đó là trường luật.
- Đến thế kỷ thứ XII, XIII nhiều trường khác:
+ Sorbon Paris – 1257.
+ Toulouse n- 1229.
+ Oxford – Anh.
+ Cambrigd – Anh.
+ Napoli – Ý.
+ Palenxia – TBN.
+ Seville – TBN…
- Lúc đầu các trường này gọi là trường phổ thông, sau gọi là đại học – Etudia generallia – Universitas = Liên hiệp, cộng đồng. Lập ra tổ chức các liên hiệp sinh viên và giáo viên, bảo vệ quyền lợi của thành viên.
- Phương pháp: Ngôn ngữ sử dụng là Latin.
· Lên lớp nghe giảng – giảng thuật: từ nội dung đặt ra vấn đề hay câu hỏi do sinh viên hoặc thầy đặt ra, sau đó tranh luận phân tích. Trước tốt nghiệp SV làm luận văn và bảo vệ.
· Đặt ra các học vị cử nhân, tiến sĩ.
- Tổ chức:
+ Rập khuôn về tổ chức, quản lý gồm:
· Viện trưởng (Recteur).
· Khoa trưởng (Doyen).
+ Cơ cấu ngành học: Bốn khoa chủ yếu:
· Nghệ thuật (văn chương và khoa học) – dự bị.
· Thần học.
· Y học.
· Luật học.
- Thầy giáo không phải là giáo sĩ, giáo hội muồn loại trừ. Giữa thế kỷ XIII, Đại học Paris bị khống chế, nhiều giáo sư bị đuổi, dần dần môn triết học kinh viện phục vụ thần học chiếm vị trí quan trọng nhất, song song đó là môn y học và lậut học.
è Các trường đại học ngày càng tỏ rõ là những trung tâm văn hóa, nơi tập trung tinh hoa trí tuệ của xã hội, nơi tỏa ánh sáng văn hóa đáp ứng các yêu cầu xã hội về khoa học nghệ thuật, y học, luật học là các tâm điểm tiên phong và cấp tiến của xã hội, nơi phát nguyên những tư tưởng mới, phê phán, đấu tranh chống hủ bại nhũng nhiễu của chế độ phong kiến và giáo hội.
Đồng thời góp phần quyết định vào sự ra đời phong trào văn hóa phục hưng sau đó.
Câu 15: Nội dung chủ yếu của phong trào văn hóa phục hưng (nhân văn)
· Tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn:
Chú trọng đến con người, chú ý đến cuộc sống hiện tại, chủ trương cho con người được tự do hưởng thú vui trong cuộc sống đối La Mã;ập với quan niệm của giáo hội. Nội dung tư tưởng ấy thể hiện:
- Lên án sự tàn bạo, đả kích châm biếm sự dốt nát giả nhân giả nghĩa của các giáo sĩ và giai cấp quý tộc phong kiến.
- Chống lại quan niện của giáo hội về con người và cuộc sống trần gian
- Chống những quan điểm phản động, phản khoa học và chủ nghĩa duy tâm triết học kinh viện
- Đề cao tinh thần dân tộc, tình yêu đối với tổ quốc, thống nhất quốc gia.
- Cảnh báo về sự lũng đoạn của đồng tiền đối với đạo đức xã hội.
· Ý nghĩa:
- Đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời phong kiến và giáo hội thiên chúa, giải phóng tư tưởng tình cảm của con người khỏi trói buộc của giáo hội, chủ nghĩa nhân văn ngày càng giữ vai tró chi phối.
- Là bước tiến kì diệu trong lịch sử văn minh phương tây với những công trình tác phẩm bất hủ làm phong phú kho tàng văn minh nhân loại, là chuẩn mực để thế hệ sau noi theo. Nhiều quy luật (hội hoạ), quan điểm mới, phát minh đặt nền móng cho nhiều chuyên ngành sau này. Đặt cơ sở cho văn minh tây Au những thế kỉ sau.
Câu 16: Các phong trào phát kiến địa lý
Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển kinh tế hàng hóa làm cho các quốc gia Tây Âu cần phải mở rộng thị trường. Tây Âu muốn sang Phương Đông để tìm kiếm vàng, gia vị, hương liệu. Sự hiểu biết thiên văn, địa lý và sự tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải đã làm xuất hiện các cuộc phát kiến địa lý.
I. Bồ Đào Nha:
Thành lập trường hàng hải, thiên văn, địa lí 1415 (hoàng tử Henri)
Tiến hành nhiều cuộc thám hiểm dần dần tìm ra Ghinê (tây Phi), Công Gô , Nam Phi-mũi Hảo Vọng.
Vascô đơ Gama: đỉnh cao các cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha.
1497 xuất phát từ Lixbon bị bão thổi tới Braxin sau đó đến Hảo Vọng và ra Ấn Độ Dương tới Môzămbich.
20-năm-1498 đến bờ biển Ấn Độ, họ phải chiến đấu rất ác liệt. Sau đó quay về Bồ Đào Nha 18-9-1499 với nhiều hàng hoá gấp 60 lần chi phí cho chuyến đi. Từ đó giữ độc quyền con đường đến Ấn Độ Dương trong gần 1 thế kỉ song song với tổ chức nhiều cuộc hàng hải mới. Năm 1517 đến Trung Quốc, 1542 đến Nhật Bản.
II. Tây Ban Nha:
Mục tiêu đi về phía tây (Bồ Đào Nha đi về phía nam) vì cho rằng giả thuyết của quả đất hình cầu.
1. Critstốp Côlômbô:
sinh giữa thế kỉ XV người Italia đến Bồ Đào Nha 1476 với tư cách là một nhà buôn. 1485 chuyển sang Tây Ban Nha vì không được quốc vương Bồ Đào Nha chấp nhận kế hoạch thám hiểm của ông. Nhà vua Tây Ban Nha đồng ý cho tổ chức cuộc thám hiểnsang phương đông, ông chịu 1/8 kinh phí và hưởng 1/10 số của cải thu được từ chuyến đi.
Ngày 3-9-1942 xuất phát từ cảng Palốtđi về phía tây, ngày 12-10 đến một hòn đảo thuộc châu Mĩ - quần đảo Bahama.
28-10-1492 đến Cuba thuộc quần đảo Bahama, đảo Haiti và tìm thấy nhiều vàng hơn các đảo khác.
bốn-1-1493 lân đường trở về đến ngày 15-3-1493 cấp cảng Palốt.
Vùng đất ông tìm ông cho là đông châu Á, chủ yếu thuộc Ấn Độ nên ông gọi thổ dân là người Ấn. Côlômbô được phong thượng tướng hải quân và tổng đốc Ấn Độ.
Tiếp sau đó là cuộc thám hiểm lần hai (1493-1496) khám phá nhiều đảo khác: Puêtôricô , Jamaica …
Lần ba (1498-1500): Triniđát và lục địa Nam Mỹ và vẫn cho là một phần của lục địa châu Á.
Lần bốn (1502-1504): Hônđurát, Nicaragoa, Côtxtarica , Panama và vịnh Đarien và phát hiện rằng không có eo biển sang Ấn Độ dương.
Ông chán nản quay về Tây Ban Nha ngày bảy/10/1504 và 20/5/1506 ông chết trong cảnh nghèo đói mà chưa ai biết hết công lao của ông.
Sau Amerigô Vexpuxi (ý) bốn lần thám hiểm châu mỹ và ông cho rằng đó là lục địa mới đến năm 1520 tất cả các bản đồ thế giới đều sử dụng địa danh America để chỉ châu Mỹ.
2. Magienlăng:
Trước Magienlăng có Banboa vào năm 1513 xuyên qua châu mỹ và xuyên qua eo Panama . Từ trên một đỉnh núi, Banboa nhìn thấy Thái Bình Dương ông gọi là Nam Hải, nhưng bị nghi ngờ là phản vua Tây Ban Nha xử tử.
Magienlăng người Bồ Đào Nha bị ảnh hưởng bởi phát hiện của Banboa và cho rằng vòng qua cực nam châu Mỹ có thể vào được Thái Bình dương. Quốc vương Bồ Đào Nha không chấp thuận đến 1517 ông sang Tây Ban Nha và gia nhập "hội đồng Ấn Độ" và viết cuốn "Đông Ấn Độ phong thổ kí" (ông đã từng đến Ấn Độ khi ở Bồ Đào Nha)
Tổng cộng: 5 thuyền và 265/239 người rời Tây Ban Nha ngày 20/9/1519 đến đảo Cana và Braxin; 11/1519 đến nam Mỹ
28/11/1520 đến được Thái Bình Dương
16/3/1521 tới quần đảo Philippin
27/bốn/1521 Magienlăng bị chết do đụng độ với thổ dân .
Encanô lên thay tiếp tục đến Malaysia và Timor , đến sáu/9/1522 chỉ còn một thuyền và 18 người về đến Tây Ban Nha.
Chứng minh một cách thuyết phục nhất quả đất hình cầu và biến những gì mà hàng trăm thế hệ trước coi như giấc mơ thành hiện thực.
3. Hậu quả kinh tế:
Không chỉ đối với người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ý mà toàn châu Au, trên nhiều lĩnh vực
+ Mở rộng phạm vi buôn bán thế giới từ đó phát triển nhanh thương nghiệp và công nghiệp, tìm nhiều đường sang phương đông vốn trước kia phải theo trung gian là người Arập. Phạm vi tăng 5 lần. Từ đó tư bản châu Au có lĩnh vực địa bàn rộng lớn.
+ Số lượng hàng hoá trao đổi buôn bán phong phú: thuốc lá, Ca cao, cà phê, chè, lá, đường cát và nhiều hàng hoá khác.
Các thành phố của Italia sa sút dần, trái lại thành thị Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đặc biệt là Hà Lan trở nên phồn vinh chưa từng thấy
+ "Cách mạng giá cả":
Tây Ban Nha chiếm được nhiều vàng từ cướp bóc và chiếm đoạt ở châu Mỹ. Vàng được tung ra mua hàng hoá khiến giá tăng cao.
Anh, Pháp, Đức giá tăng 2-2,5 lần.
Tây Ban Nha tăng 4-5 lần
Từ đó có lợi cho thương nhân và nhà sản xuất song nhân dân bị bần cùng hoá nhanh chóng.
Đã kích thích quá trình tích luỹ tư bản ban đầu thúc đẩy sự phát triển sản xuất
Những phát kiến địa lí về mặt khách quan là sự cống hiến rất quan trọng cho sự phát triển của khoa học. Nó đem lại nhiều kiến thức về địa lí, thiên văn, kĩ thuật và kinh nghiệm hàng hải mở ra phạm vi rộng lớn cho sự phát triển và nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau:ngôn ngữ học, địa chất học, sinh vật học, nhân chủng học.
Từ đó hình thành chủ nghĩa thực dân: tìm đất mới ở bắc, trung mỹ, Phi, Á và toàn châu Mỹ. Khai thác bằng mọi thủ đoạn tàn bạo tài nguyên, của cải, đàn áp các dân tộc thuộc địa. các đế quốc thực dân lớn như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét